THỊ TRƯỜNG PHÁI SINH HÀNG HÓA THẾ GIỚI: SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN
Sản phẩm phái sinh đã trở thành
công cụ tài chính quan trọng
của thị trường tài chính và hoạt
động thương mại các nước ngày nay. Công cụ phái sinh cung cấp các loại bảo vệ rủi
ro và thúc đẩy xây
dựng các chiến lược đầu tư
sáng tạo. Khoảng 30 năm trước đây, thị trường
phái sinh chỉ mang tính nhỏ lẻ và nội bộ các nước.
Nhưng đến nay, thị trường phái sinh đã có những bước phát triển
ấn tượng – gần 20%
mỗi năm trong
thập kỷ qua – đóng góp vào thị trường
tài chính toàn cầu con số khoảng 687 nghìn tỷ đôla Mỹ tính theo tổng giá trị danh nghĩa hợp đồng giao dịch chưa đáo hạn.
Chưa từng có công cụ tài chính nào trải nghiệm sự đổi mới phát
triển nhanh chóng như vậy. Sự đổi mới công nghệ và sản
phẩm cùng sự cạnh tranh tích cực
trong thị trường phái sinh thế giới đã thúc đẩy sự tăng trưởng ấn tượng đó, đóng góp
vào sự phát triển của thị trường tài chính nói riêng và nền kinh tế thế giới
nói chung. Để có
nhìn tổng quan hơn chặng đường ra đời và phát triển của thị trường phái sinh
thế giới, trong bài này, đầu tiên sẽ đi khái quát những điều cần biết về thị
trường phái sinh hàng hóa, tìm hiểu những nhu cầu về phái sinh hàng hóa từ nền
kinh tế, quá trình và tình hình phát triển của thị trường phái sinh hàng hóa, sau
đó xét tới điểm lưu ý trước tiềm năng phát triển của thị trường phái sinh hàng
hóa.
Khái quát thị trường phái sinh hàng hóa
Thị trường phái sinh hàng hóa là thị
trường phát hành và mua đi bán lại các hàng hóa phái sinh. Hàng hóa phái sinh
hay phái sinh hàng hóa (derivatives), theo cách hiểu chung nhất, là một khoản
đầu tư có giá trị phụ thuộc vào giá trị một khoản đầu tư cơ bản khác. Chi tiết
hơn, phái sinh hàng hóa là những hợp đồng tài chính, hay công cụ tài chính mà
giá trị của nó dựa vào giá trị của các tài sản cơ bản (underlying asset), nhằm
mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo lợi nhuận.
Các tài sản cơ bản ở đây có thể là Tài sản vật chất chẳng hạn như nhiều loại hàng
hóa (nguyên vật liệu, ngũ cốc và hạt có dầu, kim loại, động vật sống, năng
lượng…); Tài sản tài chính như cổ phiếu, trái phiếu, bất động sản nhà ở, bất
động sản thương mại, các khoản vay; Rổ tài sản như tổ hợp bất động sản thế
chấp, tổ hợp các khoản cho vay…; Các chỉ số (index) như: lãi suất, tỉ giá, chứng
khoán, giá tiêu dùng; hay thậm chí là các công cụ phái sinh khác và nhiều loại
khác. Khi giá trị của tài sản cơ bản thay đổi thì giá trị hàng hóa phái sinh
của nó cũng thay đổi theo và hàng hóa
phái sinh sẽ là đòn bẩy, làm tăng nhiều lần giá trị các tài sản cơ bản.
Các hàng
hóa phái sinh rất phong phú và đa dang nên có nhiều cách phân loại hàng hóa
phái sinh. Nếu dựa theo loại thị trường giao dịch thì phái sinh chia làm hai
loại : phái sinh giao dịch song phương trên thị trường phái sinh phi tập trung
OTC (hầu hết là các hợp đồng phái sinh với tiêu chuẩn và điều kiện do các bên
tự thỏa thuận) và phái sinh giao dịch đa phương trên thị trường phái sinh tập
trung (các phái sinh đã được tiêu chuẩn hóa). Nếu dựa theo tài sản cơ bản để
hình thành sản phẩm phái sinh thì phái sinh được chia làm 6 loại cơ bản: Phái
sinh từ thu nhập cố định (fixed – income derivatives), phái sinh hối đoái
(foreign exchange derivatives), phái sinh rủi ro tín dụng (credit risk
derivatives), phái sinh vốn (equities derivatives), phái sinh chỉ số cổ phiếu
(equity indices derivatives) và phái sinh hàng hóa (commodities derivatives). Nhưng
nhìn chung, người ta thường dựa trên loại sản phẩm phái sinh (type of product)
để phân loại. Theo cách phân loại này, phái sinh có năm công cụ chính là: hợp
đồng kỳ hạn (forwards), hợp đồng tương lai (futures), quyền chọn (options), hợp
đồng hoán đổi (swaps) và phái sinh tổ hợp (synthetic derivatives hoặc Advanced Structures). Trong đó, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương
lai và quyền chọn được coi là bộ công cụ cơ bản trong thị trường phái sinh. Hợp
đồng kỳ hạn là một thỏa thuận mua/bán một loại tài sản nhất định tại một thời
điểm tương lai với giá xác định. Hợp đồng tương lai là một thỏa thuận mang tính
pháp lý được tạo lập trên một Sàn giao dịch có tổ chức để mua/bán một loại tài
sản nhất định vào một thời điểm định trước trong tương lai với mức giá xác
định. Mặc dù hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng tương lai có thể sử dụng để phòng ngừa
rủi ro (do giá đã xác định trong tương lai), nhưng vì cả 2 dạng hợp đồng này đều
bắt buộc thực hiện khi đến hạn nên nó cũng mất cơ hội kinh doanh, nếu như sự
biến động giá thuận lợi. Đây là nhược điểm lớn nhất của hợp đồng kỳ hạn và hợp
đồng tương lai. Để khắc phục nhược điểm này, một dạng hợp đồng mới được tạo ra
gọi là hợp đồng quyền chọn. Quyền chọn là một dạng đặc quyền, trong đó cho phép
người mua đặc quyền này có quyền, nhưng không có nghĩa vụ phải mua/bán một tài
sản nhất định với mức giá xác định trong một khoảng thời gian xác định hoặc vào
một thời điểm xác định trong tương lai. Hợp đồng hoán đổi cũng là một
công cụ phái sinh dựa trên sự trao đổi và thực hiện hợp đồng trong lĩnh vực lãi
suất và tiền tệ. Nhiều công ty, ngân hàng muốn có hợp đồng hoán đổi để ấn định
tỷ lệ lãi suất nhằm giảm thiểu sự bất ổn trong kinh doanh. Cụ thể, có thể hiểu,
hợp đồng hoán đổi là một cam kết song phương, theo đó các nhà đầu tư sẽ trao
cho nhau vào một ngày nhất định một số lượng nhất định đồng tiền của một quốc
gia A để lấy một số lượng nhất định đồng tiền của quốc gia B đã được quy đổi
theo tỷ giá ngoại tệ hiện tại trong một thời hạn xác định, với điều hứa hoàn
lại vốn khi đến kỳ hạn. Về sau này, dựa trên sự kết hợp của 4 loại phái sinh
trên và sử dụng “kỹ nghệ tài chính” (financial engineering), đã hình thành nên
loại phái sinh tổ hợp với đặc điểm của sản phẩm phái sinh cơ bản khác nhau với
mục đích quản lý rủi ro, chuyển đổi rủi ro.
Nhu cầu hàng hóa phái sinh của nền kinh tế thế giới
Sự vận động và phát triển của nền
kinh tế thế giới đã khiến thị trường phái sinh hàng hóa hình thành như một quy
luật tất yếu khách quan. Nguồn gốc hình thành của phái sinh hàng hóa xuất phát
từ bản chất của hoạt động thương mại,
trao đổi mua bán “hàng hóa”. Khi thế giới xuất hiện thị trường, tức có sự trao
đổi mua bán thì phái sinh hàng hóa cũng manh nha định hình theo. Một thị trường
cơ bản phụ thuộc vào quá trình trao đổi, mua bán. Quá trình thương mại này bao
gồm 2 bước : Đầu tiên, người mua và người bán thỏa thuận mức giá thị trường cho
hàng hóa giao dịch. Bước hai, hoàn tất trao đổi, thường với một bên thanh toán
tiền mặt để đổi lấy một lượng hàng hóa giao dịch trong thỏa thuận từ trước.
Trong nhiều giao dịch trao đổi, thời gian thỏa thuận giá cả, thời gian thanh
toán tiền hay giao hàng là khác nhau. Bởi các nguyên nhân như sự chậm trễ trong
chuyển nhượng, do gặp khó khăn trong giao thông vận tải, do mùa vụ thu hoạch
của các hàng hóa trao đổi là khác nhau. Do đó, tại các thị trường sơ khai,
nhiều giao dịch đã tách biệt giai đọan thỏa thuận giá và giai đọan chuyển tiền
hoặc giao hàng. Trong một số trường hợp, việc tách biệt như vậy tạo nên các điều
kiện ràng buộc trong thỏa thuận, cơ sở hình thành của giao dịch hàng hóa phái
sinh. Như vậy, sự đa dạng của các thể thức thỏa thuận giao
hàng đã phát triển các loại phái sinh. Ví dụ, hợp đồng kỳ hạn về nghĩa vụ nhận hàng
với giá đã thoả thuận. Hơp đồng quyền chọn liên quan đến có quyền nhưng không
có nghĩa vụ nhận hàng theo giá thoả thuận. Việc sử dụng phái sinh chứng khoán
hầu như luôn luôn nhằm đáp ứng nhu cầu thương mại. Như Hieronymus (1971) nhận
xét, việc sử dụng các hàng hóa phái sinh để tạo điều kiện trao đổi thương mại
đã là một phần không thể thiếu cho sự phát triển thị trường. Điều này đặc biệt
rõ ràng ở các thị trường nguyên sơ, khi vị trí địa lý rất xa, khó khăn trong đi
lại và vận chuyển thì việc ký kết hợp đồng chuyển hàng kỳ hạn là một liều thuốc
hỗ trợ cần thiết để thực hiện trao đổi thành công trên cơ sở tiền – hàng thông
qua một tính năng thiết yếu của hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai và hợp
đồng kỳ hạn là xác lập một mức giá cho một giao dịch sẽ diễn ra vào một ngày
trong tương lai.
Cho đến ngày nay, khi nền kinh tế thị
trường đã phát triển mạnh mẽ, nhu cầu về hàng hóa phái sinh lại càng cấp thiết
hơn bao giờ hết. Với việc mở cửa ra toàn
cầu để hội nhập và áp dụng các chính sách tự do hóa kinh tế, thế giới đã vươn
tới nền kinh tế thị trường tự do. Bản thân hoạt động cấu trúc tài chính phức
tạp trong nền kinh tế thị trường tự do mang lại các giao dịch thương mại đa biên,
đa đồng tiền thanh toán. Điều này khiến nhiều bên tham gia, đặc biệt là doanh
nghiệp gặp phải nhiều rủi ro khác nhau, như rủi ro tỷ giá, rủi ro lãi suất, rủi
ro kinh tế và rủi ro chính trị. Thêm vào đó, với sự tích hợp của thị trường tài
chính các quốc gia và khả năng tự do huy động vốn, rủi ro lại ngày càng tăng
theo cấp số nhân. Ví dụ, khi nền kinh tế để tỷ giá hối đóai thả nổi, họ phải
đối mặt với các rủi ro biến động tỷ giá. Sự giảm thiểu điều tiết lãi suất cũng
gây ra rủi ro lãi suất cho các bên tham gia thị trường tài chính. Bên cạnh đó,
bất kỳ tài sản nào – dù là hàng hóa vật chất như nông sản, máy móc, kim loại
cho đến hàng hóa tài chính như cổ phiếu hay đồng tiền mỗi quốc gia đều có sự
giảm giá trị theo thời gian do các nhân tố nội tại vốn có hoặc bên ngoài như
điều kiện thị trường, chính sách Chính phủ, tình trang kinh tế - chính trị hiện
hành của mỗi quốc gia. Trước tình trạng như vậy, nhiều cá nhân cũng như các
doanh nghiệp có nhu cầu bảo vệ giá trị tài sản, lợi nhuận hoạt động bằng cách
chuyển một số rủi ro tài chính khó kiểm soát đến những nơi có thể chấp nhận mức
độ rủi ro đó và quản lý chúng. Vì vậy, trước những biến động khó lường của các
thị trường tài chính ngày nay, quản lý rủi ro đã trở thành nhân tố tiên quyết cho
sự sống còn và phát triển trong nền kinh
tế. Trong tình hình này, thị trường hàng hóa phái sinh với cơ chế giảm thiểu
rủi ro của mình đóng một vai trò quan trọng. Thực tế thì các công ty dịch vụ
tài chính khá năng động trong việc đối phó các rủi ro như vậy. Họ có thể đảm
bảo sẽ phòng ngừa được các rủi ro trên thông qua sử dụng các sản phẩm phái sinh
như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn, hợp đồng hoán đổi. v..v..
Các sản phẩm phái sinh cho phép khách hàng của nó có thể chuyển giao rủi ro tài
chính cho các công ty dịch vụ tài chính. Điều này thực tế sẽ bảo vệ khách hàng
khỏi những rủi ro khó lường và hỗ trợ họ có được lợi nhuận hoạt động hoặc đảm
bảo dự án hoạt động trong chi phí ngân sách đã định. Như vậy, chính nhu cầu phòng
ngừa các loại rủi ro đa dạng mà con người phải đối mặt trong thị trường tài
chính đã chứng minh các sản phẩm phái sinh là cần thiết, giúp hình thành nên
thị trường phái sinh và cũng giúp các sản phẩm phái sinh đa dạng, phức tạp hơn
để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người.
Quá trình phát triển của thị trường phái sinh thế giới
Với sự phân tích nhu cầu hàng hóa phái
sinh của nền kinh tế ở trên, có thể thấy hàng hóa phái sinh có một bề dầy lịch
sử phát triển. Hàng hóa phái sinh đã hình thành từ hơn 100.000 năm trước, khi
con người bắt đầu trao đổi hàng hóa và dịch vụ. Vấn đề vướng mắc trong hoạt
động trao đổi lúc đó là rất khó giao dịch giữa các hàng hóa có thời kỳ thu
hoạch khác nhau trong năm. Giải pháp đưa ra là sử dụng mặt hàng khó hỏng hoặc
giữ được lâu như rượu vang, ngũ cốc làm trung gian trao đổi. Ví dụ, có thể trao
đổi mặt hàng dễ hư với rượu vang để sau đó, từ rượu vang đổi lấy sản phẩm của
vụ mùa cuối năm đó; tiền tệ trao đổi lúc này là rượu vang. Những hoạt động trao
đổi này cuối cùng dẫn đến sự phát triển của tiền tệ hàng hóa (commodity money),
một công cụ giá trị trung gian hỗ trợ mở rộng cơ hội trao đổi hàng hóa có thời
vụ khác nhau. Hầu như mỗi nền văn minh sẽ phát triển một cơ sở tiền tệ hàng hóa
để thực hiện các giao dịch. Ở đây người ta sử dụng hàng hóa lâu bên để đổi lấy
thỏa thuận nhận được một lượng hàng hóa trong tương lai (sau khi thu hoạch vụ mùa),
một sự manh nha của hợp đồng kỳ hạn. Đến khoảng 8000 năm trước Công nguyên, khi
chữ viết và toán học phát triển ở nước Sumer, nằm ở khu vực sông Tigris và
Euphrates, tại Trung Đông, người Sumer sử dụng thẻ đất cùng lọ đất thay thế
rượu vang làm hợp đồng thỏa thuận cung cấp một lượng hàng hóa (đánh dấu bằng
thẻ đất) vào một ngày nhất định (thời gian ấn định ghi trên lọ đất) với giá cả
(có thể là lượng hàng hóa khác) ấn định ở ngày thỏa thuận. Đến khoảng 3.500
trước Công nguyên, người Sumer
thay thế lọ đất thành bảng đất sét. Những giao dịch lúc đó đã tương tự như hợp
đồng kỳ hạn. Đến thời kỳ cổ đại, nhiều nơi cũng xuất hiện hàng hóa phái sinh.
Thời kỳ Hy Lạp cổ đại, người Athen thiết lập hợp đồng vận chuyển thương mại
tương tự như hợp đồng kỳ hạn. Đến khoảng 1100, các thương gia
Châu Âu phát triển “văn tự hội chợ” (fair letter) –giống như thư tín dụng giữa
người mua và người bán. Những lá thư này sau đó sẽ được thanh toán tại hội chợ
thương mại khu vực châu Âu như Hội chợ Champagne
và Brie của Pháp, thị trường thương mại chính ở Bắc Âu. Người bán hàng sẽ tập
trung hàng hóa sẵn ở hội chợ và người mua sẽ cung cấp một “văn tự” làm phương
tiện thanh toán và mua hàng. Hội chợ Champagne
lúc mới thành lập chỉ phục vụ cho trao đổi nông sản, nhưng về sau phát triển
thành thị trường thương mại lớn với nhiều mặt hàng. Hội chợ Champagne
trở thành trung tâm thanh toán bù trừ quốc tế cho các giấy nợ, thư tín dụng.
Người bán nhận được “văn tự hội chợ” hay thư tín dụng. Thư này sẽ được nhà kim
hoàn tại địa phương phụ cận thanh toán. Tại giai đoạn này, nhà kim hoàn là nơi
thương nhân gửi và giữ tiền tại đó. Sau này, các nhà kim hoàn sẽ phát triển
thành các ngân hàng. Do chiến tranh và vấn đề chính trị, các hội chợ di chuyển
từ vùng Champagne
sang thành phố cảng Burges. Đến khoảng 1309, Bruges trở thành một trong những thành phố
thương mại có thị trường tiền tệ tinh vi nhất ở Châu Âu, với các hợp đồng kỳ
hạn được định hình và mua bán. Nhưng đến 1500, Bruges
suy thoái dần và hoạt động thương mại phải chuyển đến thành phố cảng Antwerp . Năm 1515, thành phố cảng Antwerp thiết lập Bourse,
một tòa nhà dành riêng cho thương nhân địa phương và quốc tế để tập trung nhau
lại và tiến hành kinh doanh thương mại. Trước khi có Bourse, thương nhân thường
gặp nhau tại một địa điểm và thời gian nhất định để tiến hành thỏa thuận. Kể từ
khi trở thành thị trường thương mại quốc tế quanh năm, thị trấn Antwerp tăng trưởng nhanh
chóng và Bourse đã trở thành địa điểm trao đổi thương mại ưa chuộng ở Bắc Âu. Hàng
dệt may của Anh, gia vị của Bồ Đào Nha, và đồ kim loại của Đức đã được giao
dịch ở Antwerp .
Do sự thành công của nó, đến năm 1531, tòa nhà Bourse mới và lớn hơn được xây
dựng ngoài thành phố theo quy hoạch phát triển đặc biệt với việc đặt hoạt động thương
mại làm trung tâm. Cách xa cảng và kho hàng nhưng Bourse mới là nơi hợp đồng và
các công cụ tài chính khác được giao dịch. Thương nhân không trực tiếp mua hàng
hóa mà họ đã mua và bán quyền sở hữu các mặt hàng - tài sản vô hình.
Một thị trường tài chính thực sự đã được thành lập nhưng hàng hóa phái sinh
được trao đổi đa số vẫn là hợp đồng kỳ hạn. Antwerp thịnh vượng cho đến năm 1648.
Trong 200 năm tiếp sau, trao đổi thương mại hàng hóa trong thế giới phương Tây sử dụng các thỏa thuận hợp
đồng tương tự như hợp đồng kỳ hạn. Tuy nhiên, nói chung, các
thỏa thuận vẫn phải giải quyết trực tiếp với nhau, một dạng phi tập
trung thời trung cổ (OTC). Mỗi bên phải tin tưởng bên khác để giao dịch. Như vậy, ta có
thể thấy phái sinh hàng hóa đã có từ lâu đời, hình thành và định hình dần dần
từ sản phẩm phái sinh cơ bản: hợp đồng kỳ hạn; chỉ có sự manh múng của thị
trường phái sinh phi tập trung, chưa có một thị trường phái sinh chính thức. Mãi về sau, phương
Đông (Châu Á) mới sản sinh ra thị trường hàng hóa phái sinh đầu tiên trên thế
giới.
Vào thời kỳ phong kiến tại Nhật bản,
khoảng năm 1700, các nhà cai trị nông thôn đã đánh và thu thuế bằng gạo. Để thu
tiền về, họ mang gạo đến các thành phố như Osaka , để lưu trữ và bán tại cuộc đấu giá.
Chỉ các nhà buôn được cấp phép mới có quyền thầu gạo tại cuộc đấu giá. Bên
thắng thầu sẽ nhận được một chứng từ nhận gạo, khi đem chứng từ và tiền thanh
toán thì họ sẽ nhận được gạo. Về sau, các chứng từ này trở nên có khả năng
chuyển nhượng; một thị trường mới phục vụ mua và bán chứng từ hình thành và
phát triển giữa các thương gia. Đến khoảng 1730, với sự hỗ trợ của
chính phủ Thị trường giao dịch lúa gạo Dojima được thành lập. Để trao đổi gạo,
có hai loại thị trường gạo, shomai và choaimai. Thị trường shomai là nơi trao
đổi gạo thực tế diễn ra. Ở đây, thương nhân mua và bán các loại gạo khác nhau
dựa trên giá giao ngay. Chứng từ nhận gạo được cấp cho mỗi giao dịch và sẽ được
giải quyết trong vòng bốn ngày. Còn thị trường choaimai là thị trường giao dịch
hợp đồng tương lai đầu tiên. Choaimai tạm dịch là mua bán gạo trên sổ sách. Để
có thể tham gia vào thị trường Choaimai, thương nhân được yêu cầu thiết lập
đường dây tín dụng với một trung tâm thanh toán. Giao dịch
được thực hiện thông qua các trung tâm thanh toán bù trừ, và nếu thương nhân vỡ
nợ trong vụ giao dịch đó, trung tâm thanh toán chịu trách nhiệm thanh toán vụ
giao dịch đó. Tương tự như ngày nay, trung tâm thanh toán bù trừ hoạt động như
một trung gian và đảm bảo hoạt động thanh toán trên các giao dịch. Do đó, Thị
trường giao dịch lúa gạo Dojima được cho là thị trường hợp đồng tương lai đầu
tiên và cũng là thị trường phái sinh hàng hóa đầu tiên trên thế giới. Tuy là
thị trường phái sinh hàng hóa đầu tiên nhưng thị trường giao dịch lúa gạo
Dojima không tạo ra sức lan tỏa, phát triển ra các nước lân cận. Chỉ khi ở Mỹ thị
trường hàng hóa phái sinh mới lan rộng, phát triển nhanh chóng ở khắp các bang
Mỹ và các nước lân cận.
Vào những năm
1970, Mỹ thiết lập nền tảng giao dịch quyền chọn cổ phiếu thông qua sự đột phá lý thuyết định giá
quyền chọn (do Fischer Black và Myron Scholes đưa ra năm
1973) cùng sự ra đời của hệ thống máy tính,
giúp Mỹ tạo làn sóng sử dụng hàng hóa phái sinh một cách rộng rãi đầu tiên trên thế giới.
Nhiều sàn giao dịch hàng hóa phái sinh đã ra đời trong những năm đó để đáp ứng
nhu cầu sử dụng hàng hóa phái sinh ngày càng tăng tại các bang Mỹ. Sở giao dịch
Chicago (CBOE) được thành lập vào năm 1973, Sở giao dịch
chứng khoán Mỹ (American Stock Exchange –ASE), Sở giao dịch Montreal (Montreal
Exchange – ME) và Sở Giao dịch Chứng khoán Philadelphia (Philadelphia Stock
Exchange)
bắt đầu kinh doanh quyền chọn năm 1975, còn Sở Giao dịch Thái Bình Dương (Pacific
Exchange) bắt đầu giao dịch quyền chọn vào năm 1976. Ở đây, sản
phẩm phái sinh giao dịch đã không dừng ở hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng tương lai
mà phát triển ở dạng mức cao hơn : hợp đồng quyền chọn, hoán đổi.
Làn sóng giao dịch phái sinh thứ hai xuất hiện trong những năm 1980 và đầu những năm 1990 tại Châu Âu. Trong thời gian này, các sàn giao dịch
phái sinh thành lập hầu hết tại thị trường tài chính lớn Tây Âu - quan trọng nhất là Sàn giao dịch Liffe (London International Financial
Futures and Options Exchange) tại London, nước Anh vào năm 1982; Sàn giao dịch các công cụ tài chính Matif (Marché à Terme International de France) tại thủ đô Paris, nước Pháp trong năm 1986, và Sở giao
dịch DTB tại Frankfurt, nước Đức vào năm 1990. Hầu hết các sở giao dịch này đều thành lập trung tâm thanh toán bù
trừ riêng của mình.
Một bước phát triển lớn tiếp theo cho
sản
phẩm phái sinh là sự xuất hiện của giao dịch điện tử. Sử dụng lần đầu tiên trên Sở giao dịch hàng hóa
Chicago (CME) năm 1992, giao dịch điện tử đã nhanh chóng được chấp nhận rộng rãi. Lợi ích có được từ giao dịch
điện tử là tính thanh khoản cao hơn, giảm chi phí giao dịch, và tính minh bạch cao hơn. Ngày nay, hầu như hoạt động giao
dịch hàng hóa phái sinh, hàng hóa, hoặc chứng khoán có thể được thực hiện tại
nhà riêng của mỗi người.
Trong những năm gần đây, ở các nước
phát triển, các sàn giao dịch phái sinh mới đã bắt đầu cạnh tranh với các sàn giao dịch
phái sinh trước đây. Ví dụ, Sở giao dịch
chứng khoán quốc tế ISE (The International Securities Exchange) bắt đầu hoạt động vào năm 2000 và đến giữa năm
2003 trở thành sàn giao dịch đi đầu trong giao dịch quyền chọn
cổ phiếu, cùng với Sở giao dịch
Chicago (CBOE). Năm 2004, BOX tham gia thành công vào
cung ứng giao dịch quyền chọn cổ phiếu tại Mỹ.
Ngoài thị trường phái sinh
tại các nước phát triển, thị trường phái sinh ở các nước mới
nổi cũng đã định hình và phát triển chuyên sâu. Ba sàn giao
dịch phái sinh đã bắt đầu đi vào hoạt động ở Trung Đông từ năm 2005: Sở giao dịch vàng và hàng hóa Dubai, Sở Giao dịch Chứng
khoán Kuwait, và Sở Giao dịch IMEX Qatar. Riêng Ấn
Độ thành lập các sàn giao dịch phái sinh
từ
năm 2000 đến 2003: Sở Giao dịch Chứng khoán Quốc gia Ấn Độ, Sở Giao dịch Chứng
khoán Bombay, Sàn giao dịch MCX Ấn Độ, và Sàn giao dịch NCDEX Ấn Độ. Trung Quốc cũng hình thành 2 sàn
giao dịch phái sinh vào năm 2005: Sở giao dịch hợp đồng tương lai
Thượng hải (Shanghai Futures Exchange) và Sở giao dịch hợp đồng tương lai tài chính Trung Quốc (China Financial
Futures Exchange). Tuy đã có sự phát triển nhất định nhưng tại các thị trường
phái sinh các nước mới nổi này cũng chưa có các sản phẩm phái sinh đa dạng như
ở các nước phát triển. Đối với các nước đang và kém phát triển thì thị trường
hàng hóa phái sinh chưa có định hình hoặc chỉ phát triển các sản phẩm phái sinh
truyền thống như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn và hoán đổi
lãi suất.
Tình hình phát triển của thị trường phái sinh toàn
cầu
Trong những năm gần đây, lợi ích từ sử dụng các công
cụ phái sinh, chẳng hạn như giảm thiểu rủi ro và chuyển giao rủi ro một cách hiệu quả, đã trở nên ngày càng quan trọng. Theo thống kê
của Hiệp hội Phái sinh và Hoán đổi Quốc tế (International Swaps and Derivatives
Association) năm 2003 thì 92% trong số 500 tập đoàn lớn nhất thế giới quản lý
rủi ro giá bằng cách sử dụng hàng hóa phái sinh. Điều này đã giúp thị trường phái
sinh hàng hóa đã có bước phát triển nhanh chóng, đứng vị trí quan trọng
trong thị trường tài chính. Trong đó, Châu Âu trở thành khu vực có thị trường phái
sinh hàng hóa phát triển nhất, đóng góp quan trọng trong lĩnh vực dịch vụ tài chính châu Âu và góp phần một cách trực tiếp cũng như gián tiếp cho tăng trưởng kinh tế.
Đến nay, thị trường phái sinh thế giới đã có bước
tiến mạnh mẽ, vươn lên trở thành phân khúc lớn nhất của thị trường tài chính
thế giới. Tính đến tháng 12 năm 2010, thị trường phái sinh
toàn cầu lên tới 687 nghìn tỷ đôla Mỹ tính theo tổng giá
trị danh nghĩa hợp đồng giao dịch chưa đáo hạn. Theo cách tính này, quy mô thị trường phái sinh lớn hơn 9 lần so với thị trường cổ phiếu
toàn cầu cộng với thị trường trái phiếu tòan cầu. Tuy nhiên, tổng giá trị thị trường ước tính của tất cả các sản phẩm phái sinh chưa đáo hạn chỉ đạt 24 180 tỷ
đôla Mỹ, thấp hơn đáng kể so với thị trường cổ phiếu và thị trường trái phiếu với mức vốn hóa thị trường lần lượt là 54884 tỷ
đôla Mỹ và 49519 tỷ đôla Mỹ (theo đồ thị
1).[1] Mặc dù vậy, thị trường phái sinh vẫn là phân khúc phát triển nhanh nhất trong thị trường tài
chính. Tuy gặp suy thoái do khủng hoảng tài chính từ cuối năm 2007
và mới phục hồi vào đầu năm 2011 nhưng tính từ năm 1995 đến 2010, quy mô theo giá danh
nghĩa của thị trường phái sinh đã tăng lên khoảng 20% mỗi năm, vượt xa thị trường các công cụ tài chính khác như thị trường cổ phiếu (12%) và thị trường
trái
phiếu (10%) (Đồ thị 2).
Về cơ cấu của
thị trường phái sinh thế giới, tính toán dựa theo thống kê của BIS, thị trường phái sinh
phi tập trung (OTC) chiếm khoảng 87,4% tổng thị trường phái
sinh, tương đương 610 nghìn tỷ đôla Mỹ giá trị danh
nghĩa các hợp đồng phái sinh. Tuy nhiên, những năm gần đây, phân khúc thị trường phái sinh
tập trung (sở giao dịch các nước) có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn so với phân khúc thị trường phi tập trung. Điều này là do yêu cầu tiêu chuẩn hóa hợp đồng phái sinh ngày càng tăng, thúc
đẩy giao dịch trên thị trường tập trung. Ngoài ra, một số yếu tố khác đóng góp vào lợi thế của việc giao dịch trên
thị trường tập trung như: minh bạch về giá, hạn chế rủi ro và giảm thiểu chi phí giao dịch. Tuy vậy, thị
trường phái sinh phi tập
trung vẫn giữ vị thế số 1 của mình bởi chỉ có phân khúc thị trường phái
sinh phi tập trung mới có thể vươn mình ra khỏi biên giới các quốc gia, tiếp
cận đến mọi khách hàng trên toàn thế giới. Miễn là các nước không áp đặt các
rào cản tham gia, thì mọi thành viên đều có thể tiếp cận, có thể giao dịch từ
xa và liên tục từ khắp nơi trên thế giới tại thị trường phái sinh phi tập trung
(ví dụ như từ sàn giao dịch
London có thể giao dịch với sàn giao dịch
Eurex ở Frankfurt). Nhờ vào thị trường phái sinh phi tập trung thì thị trường
phái sinh mới thực sự mang tính toàn cầu. Ví dụ, ngày nay gần 80% doanh thu tại
Sàn giao dịch Eurex, một trong những nơi giao dịch các phái sinh lớn của Châu
Âu, có được từ thị trường phái sinh của Đức và Thụy Sĩ, tăng mạnh từ khi chỉ có
18% của mười hai năm trước đây.
Nếu xét về sự phát triển thị trường hàng hóa phái sinh
theo từng khu vực trên thế giới thì Châu Âu vẫn đang dẫn đầu thị trường phái
sinh thế giới, chiếm 41%, vượt hẳn Bắc Mĩ chỉ có 37%, Châu
Á với 15%.
Trong lịch sử, các giao dịch phái sinh lớn hầu như chỉ
nằm trong nước Mĩ (bởi các sàn giao dịch phái sinh của Mĩ như CME, NYMEX và
NYBOT đã có từ những năm 1970, khi các nơi khác trên thế giới mới manh nha).
Hoạt động giao dịch phái sinh ở Châu Âu chỉ xuất hiện sau khi có sự nới lỏng
điều tiết (deregulation) và cho phép sở giao dịch các thành phố hoạt động như
doanh nghiệp cổ phần trong những năm 1980 và 1990. Nhờ vậy, những giao dịch
phái sinh châu Âu đã độc lập hơn trước sự biến động của thị trường phái sinh Mỹ
và các sản phẩm phái sinh được tự do phát triển hơn. Thêm vào đó, việc cung cấp
không hạn chế các dịch vụ đầu tư tại châu Âu, cùng với sự ra đời của Luật dịch
vụ đầu tư (Investment Services
Directive – ISD)
của Liên minh Châu Âu vào tháng 01 năm 1996 lại càng tăng cường vị thế
cạnh tranh của châu Âu trong thị trường toàn cầu và giúp nhiều tổ chức tham gia
cung ứng hàng hóa phái sinh trên thị trường phái sinh Châu Âu có hướng phát
triển đáp ứng thị hiếu thị trường của riêng mình. Nhờ đó, đến nay, nhiều ngân
hàng châu Âu hiện vẫn đang đi đầu trong lĩnh vực phái sinh. (Theo kết quả Khảo
sát Người sử dụng phái sinh phi tập trung năm 2007 – The Institutional Investor
OTC Derivatives User Survey 2007 – 6
ngân hàng Châu Âu nằm trong tốp 10 tổ chức cung ứng phái sinh được khách hàng
ưa chuộng). Hơn nữa, trong những năm qua, Châu Âu vẫn không ngừng nỗ lực cách mạng
hóa hoạt động giao dịch thông qua sử dụng giao dịch điện tử và thiết lập các
tiêu chuẩn ngành. Kết quả là, Châu Âu đã tăng cường vị thế của mình, tăng thị
phần toàn cầu của họ từ 24% vào năm 1995 đến gần 41% trong năm 2010, trở thành thị
trường giao dịch phái sinh lớn nhất thế giới.
Thị trường phái
sinh hàng hóa đóng góp quan trọng và ngày càng tăng vào lĩnh vực dịch vụ tài chính và tạo ra tăng trưởng kinh tế, doanh thu thuế và việc làm. Sự đóng góp của ngành phái sinh vào
GDP là trên 41 tỷ euro, chiếm khoảng 0,4% trong năm 2006 (Mc Kinsey 2007). Trong năm 2005 doanh thu ngành công nghiệp phái sinh hàng hóa châu Âu chiếm hơn 20% doanh thu các dịch vụ tài chính bán buôn Châu Âu và tạo ra hơn 20.000 công ăn việc làm cho các trung tâm tài
chính Châu Âu (theo CEBR/City of London 2007). Thêm vào đó, thị trường phái sinh đã
góp phần thúc đẩy xác định giá cả hàng hóa, hạn chế rủi ro giá cả và tăng cường
hiệu quả hoạt động của thị trường tài chính thông qua tổ chức thị
trường giao dịch đa phương, các quy định thích hợp trong việc công khai giá. Đến lượt mình,
khi
thị trường tài chính hoạt động hiệu quả hơn sẽ giúp hạ thấp hơn chi phí vốn, cho phép các doanh nghiệp đầu
tư và tiếp cận, sử dụng các nguồn lực tốt nhất có thể. Nghiên cứu của nhiều
nhà kinh tế cũng cho thấy hoạt động có hiệu quả của thị trường tài chính có thể làm gia tăng
GDP thực tế một cách đáng kể(Carmichael/Pomerleano 2002, Levine 1997 và
Domowitz/Steil 2002). Thực tế hiện nay cho thấy, mỗi thị trường phái sinh
khu vực trên thế giới đóng góp khác nhau vào sự phát triển và hoạt động hiệu
quả của thị trường tài chính khu vực đó. Có thể so sánh tỷ trọng quy mô thị trường
phái sinh với tỷ trọng quy mô các thị trường khác trên thị trường
tài chính để xác định sự đóng góp của thị trường phái sinh đối với sự
phát triển của thị trường tài chính. Tính đến cuối năm 2008, tỷ lệ giá trị danh nghĩa
các hợp đồng phái sinh chưa đáo hạn so với giá trị vốn hóa thị trường
của thị trường trái phiếu cộng với thị trường cổ phiếu là 6,2 tại Châu Âu, 4,8 cho Bắc Mỹ và chỉ có 2,5 ở Châu Á (theo BIS
2008,WFE 2008). Điều này một lần nữa chứng tỏ thị trường phái sinh Châu Âu đóng
góp mạnh nhất vào sự phát triển của thị trường tài chính so với các khu vực
khác trên thế giới.
Nếu tại thị trường phái sinh tập
trung, các sản phẩm phái sinh đều được tiêu chuẩn hóa cao, được giám sát và
điều tiết chặt chẽ thì thị trường phái sinh phi tập trung (OTC) là nơi giao
dịch các phái sinh ít có tiêu chuẩn, hoặc tiêu chuẩn chủ yếu dựa vào thỏa thuận
giữa hai bên, ít bị giám sát và điều tiết bởi cơ quan Nhà nước. Do đó, bất kỳ
một phái sinh hàng hóa nào mới được hình thành, không tiêu chuẩn cho đến các
phái sinh được tiêu chuẩn hóa cao đều có thể giao dịch trên thị trường phái sinh
OTC này. Dần dần, thị trường phái sinh phi tập trung trở thành nơi hình thành
và phát triển các sản phẩm phái sinh mới, cơ bản, hỗ trợ các sản phẩm phái sinh
mới này “tiến hóa”, phát triển hơn, được chuẩn hóa hơn. Chính vì vậy, thị
trường phái sinh tập trung và phi tập trung vẫn song song tồn tại. Và đó cũng
là lý do quy mô và sự đa dạng sản phẩm phái sinh của thị trường phi tập trung
lớn hơn nhiều so với thị trường tập trung. Qua đây, có thể thấy thị trường phi
tập trung là động lực để thị trường tập trung phát triển, hoàn thiện mình và đa
dạng sản phẩm phái sinh giao dịch hơn. Nhận thấy điều này, nhiều nước hoàn toàn
buông lỏng kiểm soát và quản lý thị trường phi tập trung với mục đích tích cực
là để thị trường phái sinh phi tập trung hoàn toàn phát triển hết tiềm năng thực;
sau đó hỗ trợ phát triển thị trường phái sinh tập trung. Chính phủ Mỹ là một
người tiên phong trong lĩnh vực này. Và để rồi hậu quả đắt giá từ sự buông lỏng
điều tiết các chứng khoán phái sinh là tạo bong bóng nhà đất, tiếp đó là sự đổ
vỡ, phá sản của nhiều ngân hàng và tập đoàn tài chính, làm tắc nghẽn hoạt động
của nhiều ngành kinh tế quan trọng và được coi là nguyên nhân quan trọng dẫn
đến cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2009. Đây là vấn đề cần hết sức
chú ý và là bài học cho các cơ quan giám sát tài chính.
Trước việc bùng
nổ và đổ vỡ bong bóng Dot-com mở đầu cho thời kỳ suy thoái kinh tế đầu thập
niên 2000 mà sự kiện 11/9 năm 2001 cùng các vụ bê bối kế toán trong các năm
2001 – 2002 làm trầm trọng hơn, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) đã nới lỏng
chính sách tiền tệ với động thái liên tục cắt giảm lãi suất xuống chỉ còn 1 % duy
trì hết năm 2004
nhằm khôi phục nền kinh tế Mỹ. Điều này đã giúp các ngân hàng phố Wall dễ
dàng tiếp cận vốn vay từ FED để đẩy vốn ra, giúp nền kinh tế phục hồi. Sự gia
tăng tín dụng này còn được đẩy mạng bởi dòng vốn ồ ạt của nước ngoài, một hệ
quả của quá trình toàn cầu hóa và sự phát triển nhanh chóng của những nền kinh
tế mới nổi (Châu Á, Trung Đông). Kết quả là bùng nổ tín dụng, lãi suất cho vay
thấp (lãi suất cho vay cố định 30 năm chỉ 4-5%/năm) ở Mỹ. Đồng thời, việc hạ
lãi suất xuống còn 1% đã khiến nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước tìm những
kênh đầu tư sinh lợi hơn so với kênh trái phiếu kho bạc. Nhưng vết tích của
khủng hoảng dot-com năm 2000 khiến đa số các lĩnh vực kinh tế vẫn còn bất ổn,
chỉ duy nhất thị trường nhà ở vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định. Điều này
khiến thị trường nhà ở thành tâm điểm đầu tư và được dự báo tiếp tục sẽ còn
“nóng lên” trong thời gian dài.
Tuy vậy việc
quay vòng vốn cho vay ở thị trường nhà ở là khá dài, khoảng 15 – 30 năm nên để
thu hồi vốn nhanh mà tránh rủi ro vỡ nợ hoặc buộc phải tịch thu tài sản, hầu
hết các ngân hàng thương mại đã sử dụng một công cụ phái sinh được gọi là chứng
khoán hóa nợ. Trước hết các ngân hàng thương mại tập hợp và bán danh mục cho
vay mua nhà của mình cho các ngân hàng đầu tư phố Wall hoặc các doanh nghiệp
cho vay thế chấp mua nhà do chính phủ bảo trợ (GSEs) là Freddie Mae và Fannie
Mac với nhiệm vụ tăng tính thanh khoản cùa thị trường cho vay thế chấp. Tiếp
theo, các GSEs và các ngân hàng đầu tư này chứng khoán hóa các khoản vay thế
chấp này thành các sản phẩm chứng khoán phái sinh như chứng khoán đảm bảo bằng tài
sản thế chấp (MBS-Mortgage Backed Securities), trái phiếu được đảm bảo bởi các
khoản nợ có thế chấp (CMO – Collateral Mortgage Obligations) rồi đem bán cho
các nhà đầu tư trên thị trường thứ cấp với lãi suất 5-6%, cao hơn 1% của trái
phiếu kho bạc. Với mức độ rủi ro thấp (đa số tài sản cơ bản của những chứng
khoán phái sinh này là những khoản vay thế chấp đạt chuẩn) nên các nhà đầu tư
phố Wall đổ vốn vào mua các MBS, CMO, khiến khoản cho vay thế chấp mua nhà đạt
chuẩn cạn kiệt, xuất hiện cho vay dưới chuẩn. Cùng với sự nới lỏng điều tiết đối
với hoạt động cho vay mua nhà ở (do chính sách khuyến khích dân nghèo và nhóm
dân da màu được vay tiền dễ dàng hơn để mua nhà), sự đánh giá tín nhiệm vô
trách nhiệm của các tổ chức xếp hạng (nhiều tổ chức được đánh giá AAA – loại
rất tốt nhưng thực tế là đánh giá không đúng sự thật) đã khiến các ngân hàng
thương mại, các tổ chức đại lý cho vay, các nhân viên môi giới, các tổ chức cho
vay bất động sản ngày càng trở nên mạo hiểm hơn trong việc cho vay, bất chấp
khả năng trả nợ của người vay. Sự bành trướng ngày càng lớn của hoạt động cho
vay dưới chuẩn đầy rủi ro cao này là quả bom đang phình lớn, chờ thời điểm phát
nổ.
Đồng hành với sự
phát triển càng tinh vi và phức tạp của công nghệ tài chính, chứng khoán phái
sinh không chỉ dừng lại ở thị trường nhà đất với khoản cho vay thế chấp nhà mà
vươn móng vuốt của mình đến các phân khúc thị trường cho vay thế chấp khác,
hình thành nên các biến thể khác của MBS, CMO. Cùng với các khoản nợ thế chấp,
nhóm tài sản bảo đảm cũng được mở rộng ra hơn bao giờ hết, bao gồm thêm một số
lượng lớn những khoản vay công ty, vay mua ô tô, thẻ tín dụng, thậm chí là các
khoản nợ LBO (các khoản vay mua lại cổ phần); giúp hình thành nên một chứng
khoán phái sinh tổ hợp cấp cao với tên gọi “Quái vật tổ hợp”. “Quái vật tổ hợp”
(hybrid monster) này được gọi là nghĩa vụ nợ có đảm bảo thế chấp (CDO – The
Collateralized Debt Obligations) với cấu trúc hết sức phức tạp, gồm các khoản
đảm bảo không đồng nhất, được chia nhỏ thành các gói có những đặc điểm và rủi
ro khác nhau theo nhiều tiêu chuẩn, phương thức thanh toán, nhằm đáp ứng nhu
cầu phong phú, đa dạng của các nhà đầu tư.
Đến giữa
năm 2007, trước tình hình tăng trưởng nóng và lạm phát có xu hướng tăng, FED đã
thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, ép chặt tín dụng và đẩy lãi suất lên
cao khiến nhiều người vay nhà không trả được nợ. Tình trạng vỡ nợ xảy ra mọi
nơi, giá nhà lại càng sụt giảm sâu hơn kéo theo giá trị các sản phẩm chứng
khoán phái sinh như MBS, CMO, CDO tụt mạnh, thậm chí đóng băng trên thị trường
thứ cấp. Khi cuộc khủng hoảng bùng nổ, các chuyên gia đã ước tính rằng trong
22000 tỷ đôla Mỹ giá trị bất động sản tại Mỹ - tâm chấn của cuộc khủng hoảng –
có tới hơn 12000 tỷ đôla Mỹ là tiền đi vay và trong đó khoảng 4000 tỷ đôla Mỹ
là nợ xấu. Một sản phẩm phái sinh “ mang mầm bệnh” nữa là “Hoán đổi vỡ nợ tín
dụng” (“Credit Default Swap” – CDS). Các hợp đồng này do các tổ chức tài chính
và các công ty bảo hiểm quốc tế bán ra. Các tổ chức này cam kết sẽ hoàn trả đầy
đủ số nợ cho vay cho bên mua CDS nếu bên đi vay không trả được nợ. Sản phẩm CDS
này thường được các nhà đầu tư như quỹ đầu tư, ngân hàng đầu tư mua để xóa hoặc
ngăn cản rủi ro xảy ra cho các gói sản phẩm chứng khoán phái sinh MBS, CMO, CDO
đã mua trước đó. Thống kê của hiệp hội phái sinh và hoán đổi quốc tế ISDA
(International Swap and Derivatives Association) về sản phẩm này cho thấy tại
Mỹ tổng số CDS ước tính khoảng 35000 tỷ đôla Mỹ và trên thế giới khoảng 54600
tỷ đôla Mỹ. Và khi các sản phẩm chứng khoán phái sinh mà CDS bảo lãnh chao đảo
thì đến lượt CDS cũng đổ vỡ theo, kéo các tổ chức bán CDS lâm vào thảm
cảnh. Sự sụp đổ của các chứng khoán phái
sinh đã tạo nên rung chuyển, ngã quỵ của nhiều tập đoàn tài chính, ngân hàng
chủ quản và bảo hiểm hàng đầu Mỹ cũng như thế giới như AIG, BNP và Lehman
Brothers, Citigroup, Goldman Sachs, Bank of America, Morgan Stanley, Merril
Lynch. Không ngừng ở thị trường tài chính Mỹ, lúc này, các công cụ phái sinh
phát huy mặt trái của nó, tiếp tục tàn phá các định chế tài chính trên toàn
cầu. Thực hiện theo Mỹ, các tổ chức tài chính lớn mạnh của các nước trên thế
giới cũng tự tạo và bán ra các sản phẩm chứng khoán phái sinh của mình như
MBS,CMO,CDO, CDS…; thậm chí làm trung gian mua bán hoặc chứng khoán lại nhiều
lần các chứng khoán phái sinh mua được từ các tập đoàn tài chính Mỹ và các quốc
gia khác để thu lời. Với mức độ khác nhau, các định chế tài chính trên khắp thế
giới đều bị ảnh hưởng. Các
ngân hàng ở Anh đã chịu ảnh hưởng lớn nhất từ cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ.
Mặc dù đã được cứu từ năm 2007, nhưng ngân hàng Northern Rock vẫn bị khoản nợ
xấu lên tới 191,6 tỷ USD tính đến hết tháng 7/2008. Ngày 29/9/2008, Bộ Tài
chính Anh đã tuyên bố quốc hữu hóa tập đoàn cho vay kinh doanh bất đông sản lớn
nhất nước này là Bradford & Bingley Plc nhằm bảo vệ khách hàng của tập đoàn
này do thua lỗ liên quan đến cuộc khủng hoảng ở Mỹ và không có khả năng trụ
vững.. Tiếp theo ngân hàng nói trên ở Anh, cuối tháng 9/2008 một số ngân hàng
lớn khác tại Châu Âu như Fortis của Bỉ và Lúc xăm bua, Dexia của Bỉ và Pháp,
ngân hàng Hypo Real Estate, ngân hàng Commerzbank của Đức cũng lâm vào tình
trạng khủng hoảng và đòi hỏi sự cứu trợ của Chính phủ. Ngành ngân hàng là ngành
trọng yếu trong mọi nền kinh tế, là trung gian tài chính cho mọi ngành kinh tế
khác dựa vào. Sự khủng hoảng của các tập đoàn ngân hàng và tập đoàn tài chính các nước đã kéo theo sự hoảng loạn của các
ngành khác, ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ hoạt động sản xuất của nước Mỹ nói
riêng và toàn thế giới nói chung: lạm phát tăng cao, thất nghiệp tăng, chỉ số
chứng khoán thế giới tụt dốc, đình trệ tiêu dùng …. Điều này cho thấy điểm khác
biệt giữa cuộc khủng hoảng lần này so với cuộc đại suy thoái 1930 chính là các
“ phát kiến tài chính” – những công cụ phái sinh góp phần tăng thêm mức độ trầm
trọng cho cuộc khủng hoảng này. Đúng như những gì Warrant Buffet đã nói :
“Chứng khoán phái sinh là loại vũ khí tài chính có sức hủy diệt kinh khủng,
mang theo những nguy hiểm mà giờ đây – năm 2003 – đang bắt đầu âm ỉ hủy diệt”.Thế
nhưng, điều đó không có nghĩa là đổ hết mọi tội lỗi lên các công cụ tài chính
phái sinh. Vấn đề ở dây là giám sát thị trường. Khẩu hiệu “ Hãy để mọi thứ
cho thị trường tự do điều tiết, Chính phủ
càng can thiệp ít vào hoạt động của thị trường càng là một Chính phủ tốt”, qua
cuộc khủng hoảng lần này đã lỗi thời. Ông Alan Greenspan, Chủ tịch Cục dự trữ
liên bang Mỹ đã phát biểu trước Quốc hội, thừa nhận sai lầm của mình khi không
kiểm soát nghiêm ngặt các chứng khoán phái sinh. Thêm vào đó là việc lạm dụng
các công cụ phái sinh, mà xuất phát điểm là từ long tham của ban quản trị công
ty trước những nới lỏng trong chính sách tài chính cũng như pháp luật của Chính
phủ.
Cuộc khủng hoảng toàn cầu năm 2007 –
2008 chưa phải là đoạn kết cho các công cụ phái sinh, cũng như thị trường phái
sinh. Qua biểu đồ trên, ta có thể thấy chứng khoán phái sinh đạt đỉnh điểm vào
năm 2006 với con số lên tới 2000 tỷ đôla Mỹ nhưng gần như lụy tàn vào những năm
sau đó, đến năm 2009 thì con số chỉ còn vỏn vẹn gần 200 tỷ đôla Mỹ. Dù vậy, thị
trường phái sinh vẫn có những bước tăng trưởng, dù tốc độ chậm hơn hẳn so với
những năm trước khủng hoảng. Nếu đến
tháng 6 năm 2010, thị trường phái sinh toàn cầu chỉ đạt 457 nghìn tỷ đôla Mỹ thì đến tháng 12 năm 2010, thị trường phái sinh toàn cầu lên tới 687 nghìn tỷ đôla Mỹ tính theo tổng giá trị danh nghĩa hợp đồng giao dịch chưa đáo hạn.
Điều này chứng tỏ rằng sự suy thoái của chứng khoán phái sinh chỉ là di chứng
mà khủng hoảng mang lại cho thị trường phái sinh. Sự tồn tại và phát triển của
thị trường phái sinh vẫn là tất yếu bởi những chức năng “giảm thiểu rủi ro,
chuyển rủi ro” của sản phẩm phái sinh mà các sản phẩm tài chính khác khó có
được.
Đây là hồi chuông cảnh tỉnh cho những
nước đã và đang phát triển thị trường phái sinh hàng hóa. Thực sự, thị trường
phái sinh phi tập trung sẽ là cơ sở để hình thành thị trường phái sinh tập
trung, từ đó phát triển thị trường phái sinh nói riêng và thị trường tài chính
nước đó nói riêng. Tiềm năng phát triển
thị trường phái sinh phi tập trung là khá lớn, nhất là trước những nhu cầu ngày
càng đa dạng về sản phẩm phái sinh của con người. Nhưng vấn đề ở đây là phát
triển thị trường phái sinh như thế nào, kiểm soát và điều tiết thị trường phái
sinh phi tập trung ra sao để tránh khỏi vết xe đổ mà Mỹ đã đi qua nhưng cũng
không làm hạn chế, mất đi tiềm năng phát triển của thị trường phái sinh phi tập
trung.
KẾT LUẬN
Chỉ sau hơn 300 năm (3 thế kỷ), từ sự
khởi đầu của thị trường phái sinh sơ khai, thị trường giao dịch lạo gúa Dojima
ở Nhật; đến nay,thị trường phái sinh thế giới đã phát triển khá năng động và
nhanh chóng trở thành phân đoạn quan trọng nhất của thị trường tài chính. Nhưng
thị trường phái sinh phát triển mạnh nhất phải kể đến thị trường phái sinh Châu
Âu, với sự xuất hiện của sàn giao dịch, sự nỗ lực phát triển thị trường, không
ngừng cung ứng các sản phẩm phái sinh đa dạng đáp ứng nhu cầu trong những thập
kỷ qua. Trong quá trình nỗ lực không nghỉ này, Châu Âu đã khẳng định vị thế của
mình với thị phần chiếm 41% tính theo giá trị danh nghĩa hợp đồng còn lại.
Cạnh tranh để phát triển, cả hai phân
đoạn thị trường phái sinh thế giới, thị trường phái sinh tập trung và thị
trường phái sinh phi tập trung đã thúc đẩy sự đổi mới công nghệ và sản phẩm,
đưa ra các sản phẩm phái sinh đa dạng, phù hợp nền kinh tế. So với thị trường
phái sinh tập trung, thị trường phái sinh phi tập trung vẫn khẳng định tiềm
năng phát triển vượt bậc và tầm quan trọng của mình, với thị phần chiếm tới
87%. Tuy nhiên, điểm cần phải cân nhắc ở đây là quản lý thị trường phái sinh
phi tập trung một cách hợp lý, tiếp tục thúc đẩy tiềm năng phát triển nhưng
trong vòng kiểm soát, tránh đi lệch đường ray, rơi vào vết xe của Mỹ.
[1] Giá trị
thị trường của các hợp đồng phái sinh được tính sau khi đã loại trừ hết tất cả
các rủi ro (aggregated net risk position), do đó thường có giá trị thấp hơn
nhiều lần so với giá trị danh nghĩa của hợp đồng phái sinh.
Nhận xét
Đăng nhận xét
Bình luận